Ngoại giao Nhà_Liêu

Người Khiết Đan vốn thần phục triều Đường, triều Đường thiết lập Tùng Mạc đô đốc phủ trên lãnh địa của người Khiết Đan. Sang thời vãn Đường và Ngũ Đại, người Khiết Đan lập ra quốc gia độc lập, đồng thời nhiều lần xâm nhập khu vực Hà Bắc. Những năm cuối Hậu Đường, Liêu Thái Tông tiếp nhận thỉnh cầu của Thạch Kính Đường, hiệp trợ người này kiến lập Hậu Tấn, thu được Yên Vân thập lục châu và sự thần phục của Hậu Tấn. Không lâu sau, người Khiết Đan lại nam chinh Trung Nguyên để tiêu diệt Hậu Tấn, kiến lập triều Liêu. Đến lúc này, quan hệ giữa triều Liêu và Trung Nguyên lần đầu tiên chuyển sang trạng thái triều Liêu ở trên, Trung Nguyên thần phục.[7]:46 Sau đó, triều Liêu suy thoái, Hậu Chu và Bắc Tống tương kế bắc phạt nhằm đoạt lại Yên Vân thập lục châu, hai bên khôi phục cục diện đối đầu. Triều Liêu lựa chọn sách lược phòng ngự, đồng thời hỗ trợ Bắc Hán để đối kháng trước việc Trung Nguyên bắc phạt, nhiều lần chặn được cuộc tiến công của Trung Nguyên. Đến thời Liêu Thánh Tông, trải qua một thời gian chuẩn bị đầy đủ, Liêu lại một lần nữa phát động nam chinh, suất quân Liêu tiến đến Thiền châu của Bắc Tống. Cuối cùng, hai bên ký kết Thiền Uyên chi minh, Liêu và Bắc Tống thiết lập quan hệ ngoại giao nhìn chung là bình đẳng, kéo dài 120 năm, đồng thời cũng tăng cường liên hệ kinh tế và mậu dịch với nhau. Năm 1042, Liêu Hưng Tông nhân dịp Tống gặp khó khăn sau chiến tranh với Tây Hạ, suất trọng binh đến thị uy ở biên giới Liêu-Tống, đồng thời phái Tiêu Anh và Lưu Lục Phù đi sứ sang Tống yêu cầu Tống cắt 10 huyện phía nam Ngõa Kiều quan. Triều Tống phái Phú Bật đàm phán với sứ Liêu, đạt được hiệp nghị, tức Trọng Hy tăng lệ, Tống tăng số tiền và vải tặng cho Liêu hàng năm để tránh chiến tranh. Sau đó, Liêu Hưng Tông còn phái Da Luật Nhân Tiên và Lưu Lục Phù một lần nữa sang Tống yêu cầu đổi sang chứ "nạp", tức Tống nạp cho Liêu chứ không phải tặng. Phú Bật kiến nghị Tống Nhân Tông đáp ứng yêu cầu, đồng thời yêu cầu Liêu phải kiềm chế Tây Hạ, nhằm phá hoại quan hệ giữa Liêu và Tây Hạ, cuối cùng khiến Liêu Hưng Tông hai lần thân chinh Tây Hạ, tổn hại nhân lực vật tư.[7]:36 Đến những năm cuối, triều Liêu bị triều Kim xâm nhập, cộng với nội bộ triều đình phân liệt và đấu tranh lẫn nhau, do vậy có ý muốn hòa đàm với Bắc Tống. Tuy nhiên, Bắc Tống lại thiết lập Hải thượng chi minh với Kim để cùng nhau đánh Liêu, cự tuyệt đề nghị hòa đàm của Liêu, cuối cùng Liêu bị Kim diệt.[4]:12

Phật Cung tự Thích Ca tháp, được xây vào năm 1056, một trong các kiến trúc có kết cấu bằng gỗ cao nhất và cổ nhất trên thế giới hiện nay.

Liêu tiêu diệt nước Bột Hải vào năm 926, từ đó có tiếp xúc với Cao Ly. Năm 942, Liêu tặng cho Cao Ly 50 con lạc đà, song bị Cao Ly Thái Tổ Vương Kiến cự tuyệt, sứ giả của Liêu bị đày ra một hòn đảo cô lập, lạc đà Liêu mang sang đều bị bỏ cho chết đói. Đến lúc này, Liêu nhiều lần tiến hành tập kích qua biên giới Cao Ly, năm 993, Liêu Thánh Tông suất đại quân vượt qua sông Áp Lục xâm nhập Cao Ly. Cuối cùng, hai bên tiến hành hòa đàm, Cao Ly đồng ý đoạn tuyệt quan hệ liên minh với Tống, Liêu Thánh Tông suất quân về bắc, hai bên kiến lập quan hệ láng giềng hữu hảo. Năm 1009, Cao Ly phát sinh binh biến, Cao Ly Mục Tông bị phế, Liêu Thánh Tông thừa cơ xâm nhập Cao Ly, sau khi đánh hạ kinh đô Khai Thành thì về bắc. Năm 1018, Liêu lại một lần nữa cho đại quân đông chinh Cao Ly, song kết quả là chiến bại. Sau đó, hai bên hòa đàm, Liêu từ đó không còn xâm nhập Cao Ly.

Liêu và các nước ở phía tây duy trì lên hệ tương đối hữu hảo. Nước láng giềng chủ yếu ở phía tây của Liêu là Tây Hạ, trong một thời gian dài duy trì quan hệ triều cống và liên hôn với Liêu, từng được gọi là "sinh cữu chi bang" (tức nước cháu [gọi bằng cậu]). Đối với các nước Tây Vực, Liêu có một quan hệ lâu dài. Ngay từ thời Liêu Thái Tổ, người Khiết Đan từng suất quân tây chinh, khiến các nước Tây Vực nối nhau thần phục.[40] Những năm Thống Hòa, vương thái phi xuất sư Tây Vực, năm 1003 xây Khả Đôn thành,[chú thích 4], như là trọng trấn ở biên cảnh tây bắc, trải qua nhiều năm mưu hoạch phát triển, khiến phạm vi thế lực của triều Liêu bao trùm cả khu vực Mạc Nam, Mạc Bắc và Tây Vực. Đối với các bộ lạc thuộc quốc hàng phục, triều Liêu đều sử dụng chính sách ki mi "nhân thiên chủng lạc, nội trí tam bộ",[41] khiến họ giám sát lẫn nhau, không muốn quay lưng lại phản triều đình Liêu.[42] Các quốc gia Cam Châu Hồi Hột, Tây Châu Hồi Hột ở phía đông Thông LĩnhKhách Lạt hãn quốc ở phía tây Thông Lĩnh về cơ bản đều thân cận phụ thuộc với triều Liêu, quan hệ với Bắc Tống khá thưa thớt. Ngoài ra, năm 924, sứ giả Ba Tư đến, sang năm sau thì sứ giả Đại Thực cũng đến Liêu thông hảo, quốc vương Đại Thực khiển sứ giả là vương tử sang thỉnh hôn, song Liêu không đồng ý. Năm sau, Đại Thực lại sai sứ thỉnh hôn, Liêu Thánh Tông đem một nữ nhi trong hoàng thất gả sang Đại Thực.[43]

Sau khi triều Đường diệt vong, các khu vực Trung Á, Tây Á, Đông Âu xem danh xưng triều Liêu (Khiết Đan) là đại diện cho Trung Quốc. Trong binh thư Hồi giáo các nước Trung Á và Tây Á, còn gọi hỏa dược và hỏa khí từ Trung Quốc truyền sang là "pháo hoa Khiết Đan", "hỏa tiễn Khiết Đan". Cho đến ngày nay, tiếng Nga vẫn theo lối xưa, dựa theo danh xưng Khiết Đan để chỉ Trung Quốc.[35]:1

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Liêu http://www.britannica.com/EBchecked/topic/338833 http://images.gg-art.com/viewNews/index_b.php?news... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024064 http://www.apu.ac.jp/~yoshim/B4.pdf http://www.chiculture.net/1702/html/1702c15.html http://www.jstor.org/stable/1005570 http://www.jstor.org/stable/25066819 http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...